Kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975-30/4/2022
Lượt xem:
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 47 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG
NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 – 30/4/2022)
A. CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ, CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA SỰ
NGHIỆP CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN
NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
I. NHỮNG BƯỚC PHÁT TRIỂN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta là cuộc chiến tranh
vô cùng khốc liệt với nhiều hy sinh, mất mát nhưng vẻ vang, oanh liệt nhất trong
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, với những
bước chuyển biến về tương quan lực lượng, cục diện chiến tranh để đến giai đoạn
cuối cuộc kháng chiến đã tạo bước nhảy vọt lớn, đi đến giành thắng lợi hoàn toàn.
1. Giai đoạn từ từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đảng lãnh đạo cuộc đấu
tranh giữ gìn lực lượng, chuyến dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu
phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Tháng 7/1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta thắng lợi, thực
dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ. Mỹ ngoan cố không chấp nhận các điều
khoản của Hiệp định Giơnevơ, không ký Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định, đồng
thời xúc tiến kế hoạch xâm chiếm miền Nam nước ta bằng chính sách thực dân mới.
Thông qua việc dùng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Mỹ tập trung thực hiện
biện pháp “tố cộng, diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những
người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59
“đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà
tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và
dân cả nước thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN ở
miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ. Thực hiện nhiệm vụ trên, ở miền Bắc, ta tích cực triển
khai những biện pháp nhằm nhanh chóng ổn định, sớm tổ chức cuộc sống mới sau
chiến tranh. Trong ba năm (1958 – 1960), đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo
XHCN, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội theo con đường đi lên CNXH. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô
cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất
khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của
Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam,
mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát
triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng
lên trong phong trào Đồng khởi (1959 – 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền
Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.
2. Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến
công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang “Chiến tranh
đặc biệt” đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy
tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét dồn dân vào ấp chiến lược, đưa
10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi
nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ
khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ
trang và chính trị, đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, bằng cả ba mũi giáp công,
trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mỹ và tay sai. Ở miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng
đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến
đấu và chi viện cho miền Nam.
3. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân
chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ ” của đế quốc Mỹ ở
miền Nam, đánh thẳng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở
miền Bắc.
Trước nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu
tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân
dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa
1965 đến hết 1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và
hải quân.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược
Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng
oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bàu Bàng, ta lại đánh bại ba
cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến
trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu
chủ yếu của Mỹ ở các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến
công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều
mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho
miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân Xuân 1968 đã giáng một
đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng
phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.
4. Giai đoạn từ 1969 đến 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt
Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh ”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai
ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán.
Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Mỹ buộc phải rút quân về
nước nhưng lại kéo dài và mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào, thi hành chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến
tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc
kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam – Bắc. Quân và dân ta phối hợp
với quân, dân hai nước Lào, Campuchia, đánh bại một bước quan trọng chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước
Đông Dương trong hai năm 1970 – 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp
giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972
và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai lên miền Bắc, nổi bật là đánh thắng
cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến
trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công
địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (1973),
rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, làm cho
so sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành
thắng lợi cuối cùng.
5. Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ,
kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng
lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.
Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ
vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ
nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho quân ngụy lấn đất,
giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để
ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống
phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hỏng xóa
bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con
đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn
cho hai miền Nam – Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta
ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã giành được thắng
lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng
hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu QĐND Việt Nam
xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 – 1976, nếu
thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn Miền, nhất là
của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng toàn tỉnh Phước Long cuối năm
1974 – đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả
năng Mỹ khó quay lại được Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn
toàn miền Nam đã đến.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng
ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm
Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; chiến dịch giải phóng Huế – Đà Nẵng và
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn – Gia Định kết thúc vào ngày
30/4/1975. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự,
quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược.
II. Ý NGHĨA, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM
1. Ý nghĩa lịch sử
Đối với Việt Nam: thắng lợi của Nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói
lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta
đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh
liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt
ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh
dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa Tổ quốc ta bước vào kỷ nguyên
độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Đối với thế giới: thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình,
dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc
giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực
dân kiểu mới trên toàn thế giới.
2. Nguyên nhân thắng lợi
Thứ nhất: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết
định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền
thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác
Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền con người.
Thứ ba: cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng,
triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Thứ tư: kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành
sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Thứ năm: liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia;
đoàn kết quốc tế.
3. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc
điểm của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
Thứ ba: Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách
mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh
toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân
dân Việt Nam.
Thứ tư: Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh
cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.
Thứ năm: phải luôn luôn chú trọng xây dựng đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng
cao sức chiến đấu và phát huy hiệu quả lãnh đạo của đảng.
B. TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY GIẢI PHÓNG BÀ RỊA, VŨNG TÀU
MÙA XUÂN 1975 VÀ NHỮNG THÀNH TỰU CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TRONG
47 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (1975-2022)
I. CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY GIẢI PHÓNG BÀ RỊA,
VŨNG TÀU MÙA XUÂN 1975
Phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng từ cách mạng tháng Tám (1945),
qua kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Bà Rịa, Vũng Tàu đã kiên cường
bám trụ, tích cực xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy cả “ba mũi giáp công”
(quân sự, chính trị và binh vận) trên cả “ba vùng chiến lược” (miền núi, đồng bằng
và đô thị), lần lượt làm thất bại từng chiến lược chiến tranh của Mỹ, ngụy. Trong
quá trình vận động cách mạng, Tỉnh ủy Bà Rịa – Long Khánh1 đã lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng thế và lực cách mạng; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn
toàn tỉnh để chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy giành chính quyền. Cuộc tổng
tiến công và nổi dậy giải phóng Bà Rịa, Vũng Tàu mùa Xuân 1975 là kết quả cuộc
chiến đấu 30 năm lâu dài và khốc liệt của quân và dân Bà Rịa – Vũng Tàu từ sau
Cách mạng tháng Tám. Những chiến công mở đường trên biển Đông, tiếp nhận vũ
khí của Trung ương, đánh địch ở địa đạo Long Phước, chống phá ấp chiến lược,
chống bình định gom dân, mở màn trận thắng Bình Giã, chống phá chiến thuật hàng
rào mìn và ụ ngầm của lính đánh thuê úc, bảo vệ vững chắc căn cứ Minh Đạm, tiến
công sân bay, bến cảng Vũng Tàu…là minh chứng cho sức mạnh của khối đoàn kết
toàn Đảng bộ tỉnh, dân và quân trên cơ sở mục tiêu, lý tưởng và nhiệm vụ cách mạng.
1. Công tác chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy
Sau Hiệp định Pari 1973, Tỉnh ủy Bà Rịa-Long Khánh đã chỉ đạo các tổ chức
cơ sở Đảng đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, vận dụng cơ sở pháp lý để
buộc chính quyền Mỹ-ngụy và tay sai thi hành Hiệp định. Tuy nhiên, với bản chất
ngoan cố, địch mở chiến dịch “Tràn ngập lãnh thổ”, tập trung phản kích, tấn công có
trọng điểm, lấn chiếm nhiều xã trên địa bàn tỉnh và hầu hết các vùng ta mới vừa giải
phóng.
Trước tình hình đó, xác định Bà Rịa-Long Khánh là chiến trường trọng điểm,
là tuyến phòng thủ đặc biệt quan trọng mà ngụy quân, ngụy quyền ráo riết tăng cường
bám giữ, nhất là sau khi địch thất thủ ở Tây Nguyên và Trung bộ. Khu ủy và Quân
khu Miền Đông đã kết hợp với Tỉnh ủy khảo sát tình hình và xây dựng phương án
chống lấn chiếm trên địa bàn lộ 23, từ Đất Đỏ lên Xuyên Mộc với sự tăng cường của
Trung đoàn 4 và Trung đoàn 33 chủ lực quân khu. Các lực lượng vũ trang Bà RịaLong Khánh được lệnh đã kiên cường bám trụ, chống địch lấn chiếm, bảo vệ và mở
rộng vùng giải phóng.
Ngày 2 tháng 11 năm 1974, Tỉnh ủy Bà Rịa – Long Khánh ra Nghị quyết về
“Phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp công tác năm 1975 và những tháng cuối năm
1974”. Nghị quyết khẳng định: “Động viên quyết tâm và nỗ lực cao nhất của toàn
Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh nắm vững tư tưởng tiến công, đẩy mạnh 3 mũi, gỡ
đồn diệt sinh lực địch, giải phóng xã ấp, làm thất bại cơ bản kế hoạch bình định lấn
chiếm mới của địch, phát triển thực lực mọi mặt, làm thay đổi hẳn thế và lực tại chỗ,
giành thắng lợi lớn nhất trong năm 1975”2.
1 Thời điểm thực hiện Tổng tấn công và nổi dậy là Tỉnh Đảng bộ Bà Rịa và Thành ủy Vũng Tàu trực thuộc Khu ủy
miền Đông Nam Bộ.
2 Tài liệu đã dẫn, Hồ sơ của Cục lưu trữ Trung ương Đảng, phông Khu uỷ miền Đông Nam Bộ.
Cùng với quân và dân miền Đông Nam bộ, quân và dân Bà Rịa – Long Khánh
phấn khởi bước vào đợt hoạt động mùa khô 1974-1975 mà Xuyên Mộc, Long Đất
là những trọng điểm, riêng Long Đất là trọng điểm hoạt động của toàn Miền. Tại
đây, ngụy quyền tập trung lực lượng ráo riết ủi phá địa hình, lấn chiếm lộ 23 và di
dân về Láng Dài, lấn dần vào vùng căn cứ của ta. Tỉnh ủy đề ra nhiệm vụ của toàn
tỉnh trong mùa khô 1974-1975 là: Mở rộng khu căn cứ Minh Đạm, giải phóng lộ 23,
nối thông căn cứ phía bắc xuống giáp biển. Ban chỉ huy chống phá địch lấn chiếm
lộ 23 được thành lập, đồng chí Phạm Lạc, Tỉnh đội trưởng là Tư lệnh, đồng chí Phạm
Văn Hy, Bí thư Tỉnh ủy là Chính ủy, đồng chí Lê Văn Việt, Huyện đội trưởng Long
Đất là chỉ huy phó. Bộ chỉ huy tiền phương mặt trận đóng tại Long Tân. Tiểu đoàn
445 bộ đội tỉnh, đại đội 25 bộ đội huyện Long Đất cùng du kích các xã đã phối hợp
đánh địch nhiều trận ở Phước Lợi, Phước Hải, Láng Dài, loại khỏi vòng chiến đấu
hàng trăm tên địch, phá hủy hàng chục xe ủi đất.
Đợt hoạt động mùa khô 1974-1975 quân và dân tỉnh Bà Rịa – Long Khánh đã
giữ vững và phát triển mạnh thế chủ động chiến trường, đẩy địch lâm vào thế bị
động, tạo điều kiện thúc đẩy thời cơ chiến lược cho thời kỳ cuối của cuộc chiến
tranh, làm phá sản về cơ bản kế hoạch lấn chiếm bình định của địch, gây cho địch
nhiều thiệt hại, buộc chúng phải rút bớt một số tua, chốt nhỏ, dọc lộ 23, 53, bộ máy
tề xã, ấp lỏng, rã; nhân dân có điều kiện bung ra sản xuất, ủng hộ lương thực cho
cách mạng. Phong trào đô thị cũng có bước phát triển rõ nét.
Bước vào Đông-Xuân năm 1974-1975, khí thế cách mạng các nơi sôi nổi hẳn
lên, thanh niên nam nữ được tập họp thành các trung đội luyện tập quân sự, tập băng
bó, tải thương, sẵn sàng ra trận khi có lệnh. Nhân dân khắp nơi dự trữ gạo, muối,
thuốc men, chuẩn bị hậu cần cho các đơn vị bộ đội. Các tổ binh vận, nhân dân các
xã luôn truyền tin thắng lợi, công khai vận động anh em binh sĩ ngụy đấu tranh với
bọn đầu sỏ chỉ huy quy súng trở về với cách mạng. Ban kinh tài tỉnh thành lập một
bộ phận nghiên cứu thực địa vùng căn cứ giải phóng để chuẩn bị bố trí dân cư, quy
hoạch sản xuất và huy động mọi khả năng về tài nguyên, nhân lực đón thời cơ mới;
cấp thêm kinh phí cho cho ban dân y, hậu cần tỉnh đội, tu bổ sửa chữa xe để sẵn sàng
vận chuyển phục vụ chiến trường.
Những thắng lợi về quân sự, chính trị và binh vận trên chiến trường cũng như
ở vùng đô thị đã tạo điều kiện để bảo vệ vùng giải phóng, mở rộng căn cứ và phát
triển nhiều lõm chính trị mới. Phong trào du kích chiến tranh phát triển ở nhiều xã,
từ việc xây dựng hệ thống hầm chông, hố đinh, cho đến hình thành thế chiến đấu
chống địch lấn chiếm. Thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận tiến công và nổi dậy
đã hình thành, các lực lượng của ta ở bên trong và bên ngoài các đồn bót giặc, lực
lượng vũ trang 3 thứ quân với lực lượng chính trị của quần chúng có sự phối hợp
chặt chẽ, chắc chắn. Mọi lực lượng và các thứ quân đã chiếm được địa bàn vững
chắc, sẵn sàng nổ súng vào mục tiêu tiến công; phát huy sức mạnh tổng hợp mạnh
chưa từng có trong lịch sử chiến tranh cách mạng.
Đầu tháng 4 năm 1975, Ban Quân sự Trung ương Cục và Khu ủy miền Đông
cùng với Tỉnh ủy họp bàn phương án phối hợp với bộ đội chủ lực Quân khu 7 (Sư
đoàn 6) tiến công bao vây giải phóng Xuân Lộc, mở cửa ngõ hướng Đông Bắc tiến
vào Sài Gòn, từ đó tiến công giải phóng Bà Rịa, Vũng Tàu, chặn đứng con đường
rút chạy bằng đường biển của địch. Nhận nhiệm vụ Khu ủy và quán triệt tinh thần
Nghị quyết 15 của Trung ương Cục, Tỉnh ủy chỉ đạo các Đảng bộ, quân dân trong
tỉnh chuẩn bị lực lượng, lương thực, địa bàn đón bộ đội chủ lực và phối hợp với lực
lượng chủ lực sẵn sàng tiến công nổi dậy với phương châm “huyện giải phóng huyện,
xã giải phóng xã”. Thắng lợi dồn dập trên các chiến trường, đặc biệt sau thắng lợi
vang dội ở Phước Long đã tác động ảnh hưởng rất lớn đến tình hình Bà Rịa, Vũng
Tàu. Toàn quân, toàn dân trong tỉnh phấn khởi, tin tưởng vào trận quyết chiến chiến
lược. Nắm thời cơ, Tỉnh ủy, huyện ủy và Ban cán sự các thị xã đẩy mạnh tuyên
truyền binh vận phát động quần chúng, khẩn trương xây dựng, củng cố lực lượng,
chuẩn bị cùng bộ đội chủ lực giải phóng Bà Rịa, Vũng Tàu.
Để đảm bảo yêu cầu lãnh đạo và chỉ đạo các địa phương trong tỉnh Bà Rịa,
Long Khánh hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch đã đề ra, ngày 8 tháng 4 năm
1975 Thường vụ Khu ủy quyết định chia Tỉnh Đảng bộ Bà Rịa – Long Khánh chia
thành 3 Tỉnh Đảng bộ: Tỉnh Đảng bộ Bà Rịa, Tỉnh Đảng bộ Long Khánh và Thành
ủy Vũng Tàu trực thuộc Khu ủy miền Đông Nam bộ. Đảng bộ Bà Rịa do đồng chí
Lê Minh Hà, Khu ủy viên dự khuyết, Phó giám đốc trường sơ trung làm Bí thư, đồng
chí Lê Minh Nguyện là Phó bí thư. Đồng chí Phạm Văn Hy, Khu ủy viên được cử
làm Bí thư Thành ủy Vũng Tàu.
Từ ngày 9 tháng 4 năm 1975 đến 21 tháng 4 năm 1975, lực lượng chủ lực Sư
đoàn 6 và Quân đoàn 4 cùng lực lượng vũ trang Bà Rịa và Long Khánh (tiểu đoàn
445, Tiểu đoàn 440, K8 Xuân Lộc, C204 cao su, C34 Châu Đức) đã đồng loạt tham
gia chiến dịch tiến công giải phóng Xuân Lộc. Tình hình chuyển biến hết sức mau
lẹ. Sư đoàn 3 – Sư đoàn Sao Vàng của Quân khu V phối hợp quân đoàn 2 được lệnh
hành quân cấp tốc vào giải phóng Bà Rịa, Vũng Tàu, chặn con đường rút chạy ra
biển của địch.
Từ ngày 9/4/1975 đến 21/4/1975, các lực lượng vũ trang Bà Rịa và Long
Khánh đồng loạt tiến công nhiều vị trí ngoại vi, cùng với Quân đoàn 4 và sư đoàn 6
bộ đội chủ lực quân khu giải phóng Xuân Lộc, đập tan tuyến phòng thủ được mệnh
danh là “Cánh cửa thép” bảo vệ cánh cửa phía Đông Bắc vào Sài Gòn. Tình hình
chuyển biến hết sức mau lẹ. Sư đoàn 3 – Sư đoàn Sao Vàng của Quân khu V phối
hợp quân đoàn 2 được lệnh hành quân cấp tốc vào giải phóng Bà Rịa – Vũng Tàu,
chặn con đường rút chạy ra biển của địch.
2. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Bà Rịa, Vũng Tàu
a. Tiến công Chi khu Đức Thạnh, giải phóng quận lỵ đầu tiên của tỉnh
Ngày 23 tháng 4 năm 1975, những đơn vị đầu tiên của Sư đoàn Sao Vàng
Quân khu V đã hành quân đến rừng cao su Cẩm Mỹ, căn cứ của tỉnh Bà Rịa, Vũng
Tàu. Cùng ngày tại Cẩm Mỹ, Tỉnh ủy, Tỉnh đội Bà Rịa đã họp cùng Sư đoàn Sao
Vàng bàn kế hoạch hiệp đồng tác chiến.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975 cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn mang tên chiến
dịch Hồ Chí Minh cũng là lúc Bộ chỉ huy Sư đoàn 3 Sao Vàng cùng đồng chí Nguyễn
Minh Ninh, Tỉnh đội trưởng Bà Rịa và các đồng chí cán bộ tham mưu Quân khu 7
họp bàn triển khai phương án giải phóng Bà Rịa, Vũng Tàu. Cuộc tiến công giải
phóng Bà Rịa, Vũng Tàu được tiến hành làm 2 giai đoạn: Giai đoạn I: Giải phóng
thị xã Bà Rịa và toàn tỉnh Phước Tuy; Giai đoạn II: Giải phóng Vũng Tàu. Trung
đoàn 12 được giao nhiệm vụ cùng lực lượng địa phương tiến công quận lỵ Đức
Thạnh rồi phát triển xuống Đất Đỏ, Long Điền.
Đến 17 giờ, cùng thời điểm với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 19 khẩu trọng
pháo của Sư đoàn Sao Vàng đã đồng loạt nổ súng vào các mục tiêu thuộc Tiểu khu
Phước Tuy, Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp và Chi khu Đức Thạnh, mở màn cuộc
tiến công giải phóng tỉnh. 20 phút sau, pháo ta bắn cấp tập, áp đảo địch cho bộ binh
xung phong.
Tại chi khu Đức Thạnh, các trận địa pháo địch bố phòng tại Bình Ba và Núi
Đất nã đạn dữ dội vào đội hình ta, chặn các hướng cửa mở, dựa vào công sự kiên cố
chống trả quyết liệt. Các mũi tiến công của ta được lệnh ngưng đợt 1 – lúc 21 giờ để
củng cố lại lực lượng
23 giờ, Trung đoàn 12 mở đợt tiến công thứ 2. Địch dựa vào công sự phản
kích quyết liệt. Đại đội công binh của Trung đoàn được lệnh tập kích vào trận địa
pháo Bình Ba, địch bỏ pháo chạy tán loạn. Trận địa pháo ở Núi Đất cũng bị sư đoàn
pháo kích, chi khu Đức Thạnh giảm dần tiếng súng.
04 giờ sáng 27/4/1975, Trung đoàn 12 cùng các lực lượng huyện Châu Đức
hoàn toàn làm chủ chi khu Đức Thạnh. Các lực lượng huyện có mặt lúc 6 giờ cùng
ngày, tiếp quản chi khu, quận lỵ, cử cán bộ về các ấp giúp đồng bào ổn định tình
hình, kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền đăng ký trình diện. Chi khu Đức Thạnh cùng
các xã Đông và Tây lộ 2 được giải phóng sáng 27/4/1975. Đây là quận lỵ được giải
phóng đầu tiên trong tỉnh.
b. Giải phóng Thị xã Bà Rịa; làm chủ chiến trường Xuyên Mộc, Long Điền,
Đất Đỏ.
* Giải phóng Thị xã Bà Rịa
Để chuẩn bị cho ngày Tổng tiến công và nổi dậy, Thị ủy Bà Rịa đã đưa 20 cán
bộ của Tỉnh tăng cường cho Thị ủy vào khu vực nội ô, tham gia cùng các đảng viên
và cốt cán trong thị xã phát động quần chúng. Kế hoạch khởi nghĩa vạch ra có sự
hiệp đồng chặt chẽ giữa bên trong và bên ngoài. Với phương châm: tập trung lực
lượng và hỏa lực mạnh vào các điểm xung yếu đầu não của địch ở Phước Tuy, hạn
chế đến mức thấp nhất thiệt hại tính mạng và tài sản của nhân dân, bảo vệ khám
đường, các cơ sở điện, nước, bệnh viện… Nhiệm vụ thọc sâu, tiến công giải phóng
thị xã Bà Rịa được Sư đoàn Sao Vàng giao cho Trung đoàn 141, với sự tăng cường
đại đội 4 xe tăng. Đội biệt động thị xã dẫn đường cho bộ binh của Tiểu đoàn 7, Trung
đoàn 141; Sư đoàn Sao Vàng có đại đội xe tăng dẫn đầu từ hướng nhà máy nước
theo đường Lê Lợi tiến vào Thị xã.
17 giờ ngày 26/4/1975, trọng pháo của Sư đoàn Sao Vàng đồng loạt nã đạn
vào Tỉnh đoàn bảo an, khu tiếp liệu, Tiểu khu Bà Rịa, Trung tâm huấn luyện Vạn
Kiếp. Đại đội 4 xe tăng đã xuất kích từ hướng Núi Dinh, cùng Tiểu đoàn 7, Trung
đoàn 141 (Sư đoàn Sao Vàng) theo sự hướng dẫn của Đội biệt động thị xã đã tiến
dọc đường Lê Lợi vào tỉnh lỵ Bà Rịa.
Sáng ngày 27/4/1975, Tiểu đoàn 7 đánh vào khu tiếp liệu, khu an ninh, Ty
cảnh sát và Sở chỉ huy Liên đoàn bảo an. 06 giờ sáng, ta chiếm Tòa hành chánh rồi
phát triển lực lượng ra hướng cầu Mới, Ty chiêu hồi. Trưa 27/4/1975, ta làm chủ
Tỉnh đoàn bảo an, Các cụm pháo Ông Trịnh, Láng Cát trên Lộ 15 lần lượt rút chạy.
Ở phía Tây, Tiểu đoàn 9 đánh chiếm khu vực Núi Dinh, tiến vào thị xã Bà
Rịa. Khẩu đội ĐKZ của tiểu đoàn liên tiếp bắn cháy 2 xe tăng, buộc chúng phải rút
chạy. Trong khi đó, ở phía Đông, Tiểu đoàn 8 tiến công Trung tâm huấn luyện Vạn
Kiếp. Đại đội 4 xe tăng cùng Tiểu đoàn 9 đánh xuống cầu cỏ May, với quyết tâm
chiếm giữ cầu bằng mọi giá, chuẩn bị cho giai đoạn 2 của chiến dịch, tiến về giải
phóng Vũng Tàu.
14 giờ, Sư đoàn Sao Vàng đã đánh chiếm được Tỉnh đoàn bảo an rồi phát triển
lực lượng đánh chiếm Trung tâm Vạn Kiếp, chiếm lĩnh hoàn toàn các mục tiêu trong
nội ô lúc 15 giờ cùng ngày. Thị xã Bà Rịa được hoàn toàn giải phóng, cờ Mặt trận
phấp phới bay trên Tháp nước Nhà Tròn Bà Rịa.
18 giờ ngày 27 tháng 4 năm 1975, Bộ chỉ huy Sư đoàn Sao Vàng cùng các
đồng chí lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo thị xã đã tập kết tại dinh tỉnh trưởng ngụy. Đồng
chí Lê Minh Hà, Khu ủy viên miền Đông Nam bộ, Bí thư tỉnh ủy chủ trì Hội nghị
thành lập Ủy ban quân quản tỉnh Bà Rịa. Ủy ban Quân quản tỉnh và Ủy ban Quân
quản Thị xã bàn ngay những nhiệm vụ cấp bách tiếp quản thị xã, tổ chức cho ngụy
quân ngụy quyền đăng ký trình diện, ổn định đời sống và sinh hoạt của đồng bào.
Trong cùng ngày, Đoàn 10 đặc công Rừng Sác và z.24 Lữ đoàn 316 Quân báo
Miền tiến công giải phóng xã đảo Long Sơn. Sư đoàn Sao Vàng triển khai lực lượng
qua Long Son bố trí hỏa lực tại Bến Điệp khống chế các mục tiêu ở Vũng Tàu và
khóa cửa sông Lòng Tàu.
* Làm chủ chiến trường Xuyên Mộc, Long Điền, Đất Đỏ.
Trong lúc Sư đoàn Sao Vàng tập trung lực lượng tiến công chi khu Đức Thạnh
và Tiểu khu Phước Tuy thì lực lượng vũ trang địa phương đã làm chủ các địa bàn
Xuyên Mộc, Long Đất.
Tại Xuyên Mộc, nhằm chặn đường chạy của địch từ Hàm Tân (Thuận Hải)
vào, lực lượng vũ trang huyện kết hợp với du kích các xã đã đón đánh địch ở Bình
Châu chặn đoàn xe 52 chiếc và giật sập cầu Nước Mặn. Khắp các địa phương trong
huyện, quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của các chi bộ mật cũng tích cực
chuẩn bị mọi mặt, công khai tuyên truyền, binh vận, sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa. 9
giờ sáng ngày 27/4/21975, lực lượng huyện đang trên đường hành quân về giải
phóng Xuyên Mộc thì được tin toàn bộ quân địch ở Chi khu Xuyên Mộc đã tháo
chạy tán loạn về Đất Đỏ, Long Điền tìm đường thoát ra biển hoặc co cụm về Vũng
Tàu do Tiểu khu Phước Tuy thất thủ. Trưa 27/4/1975, Xuyên Mộc được hoàn toàn
giải phóng.
Tại Long Điền, Tiểu đoàn 445 với sự tăng cường của C.41 bộ đội huyện Châu
Đức đã tổ chức đánh chiếm chi khu và quận lỵ Long Điền. C.25 bộ đội huyện Long
Đất cùng 15 du kích xã đã phối họp Tiểu đoàn 445 trong trận đánh vào Chi khu và
quận lỵ Long Điền. Ta làm chủ hoàn toàn thị trấn Long Điền vào lúc 9 giờ sáng ngày
27/4/1975. Sau khi làm chủ chi khu và quận lỵ Long Điền, tiểu đoàn 445 bố trí hai
đại đội (C.l và C.2) chốt ở ngã ba Long Điền, đánh tan các toán quân địch từ Bà Rịa
và Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp chạy về, bảo vệ địa bàn cho Sư đoàn Sao Vàng
phát triển lực lượng về hướng Long Hải và Vũng Tàu.
Tại Đất Đỏ, trưa 27/4/1975, Đại đội du kích liên xã: Long Tân – Phước Thạnh
– Phước Thọ – Phước Hòa Long vừa được thành lập trong ngày đã phối hợp với Đại
đội 25 huyện Long Đất tiến công chi khu và chi nhánh cảnh sát Đất Đỏ, địch tan rã,
bỏ súng, bỏ đồn chạy thoát thân. Các xã Phước Thạnh, Phước Thọ, Phước Hoà Long
được giải phóng lúc 12 giờ 30 phút, ngày 27/4/1975. Lực lượng chính trị huyện và
các chi bộ xã vận động quần chúng xuống đường thu chiến lợi phẩm, tước vũ khí
tàn quân địch. 10 giờ, ngày 28/4/1975, C.25 bộ đội huyện Long Đất vận động xuống
Long Hải chặn toàn bộ số tàn quân địch. 16 giờ cùng ngày, xã Phước Lợi, Long Mỹ,
Hội Mỹ được giải phóng, huyện Long Đất được giải phóng hoàn toàn. Chiều
28/4/1975, ngư dân các xã Long Hương, Phước Lễ, Phước Tỉnh được lệnh huy động
toàn bộ ghe chuẩn bị đưa bộ đội qua sông, giải phóng Vũng Tàu.
c. Phá vỡ phòng tuyến Cỏ May, cùng ba mũi tiến công giải phóng Thành phố
Vũng Tàu
Vũng Tàu và các vùng phụ cận trong những ngày 28, 29 và 30/4/1975 trở nên
sôi động. Đại pháo ta từ Bà Rịa nã dữ dội vào thành phố Vũng Tàu. Sau khi giải
phóng Bà Rịa, ngày 28/4/1975, các đơn vị thuộc sư đoàn Sao Vàng chia làm hai mũi
tiến về Vũng Tàu, tiêu diệt những cụm phòng thủ cuối cùng của địch ở miền Đông.
Mũi chính diện do tiểu đoàn 3, trung đoàn 2 đánh thẳng vào tuyến phòng ngự
cầu Cỏ May trên đường 15. Mũi thứ hai vượt sông Cửa Lấp tiến công Trại Nhái, Bãi
Sau, khu Chí Linh và Núi Nhỏ.
Đêm 28 rạng sáng ngày 29/4/1975 đặc công nước, trực thuộc Thị đội Vũng
Tàu từ Gò Găng (Long Sơn) vượt sông Dinh đánh sang cầu Rạch Bà, hình thành mũi
tứ ba, tiến công vào lực lượng địch ở Vũng Tàu.
Ở hướng tiến công chính diện tại cầu Cỏ May các chiến sĩ tiểu đoàn 3 (Sư
đoàn Sao Vàng) vấp phải sức kháng cự quyết liệt của địch. Khoảng 3 giờ sáng ngày
29/4/1975, hai đại đội hoả lực ĐKZ vượt sông, vừa cặp bãi sú thì hỏa lực địch từ xe
tăng, xe bọc thép nằm trong các ụ ngầm bắn xối xả đạn. Hai đại đội ĐKZ vẫn ngoan
cường bám bãi sú, vừa chiến đấu vừa đào công sự triển khai trận địa dưới làn đạn
dày đặc của địch. Trong lúc hỏa lực của sư đoàn chi viện, Tiểu đoàn 3 vẫn không
vượt nổi lưới đạn dày đặc của địch.
Trong lúc trên hướng chính, tiểu đoàn 3, mũi xung kích của Trung đoàn 2 gặp
bất lợi lớn tại cầu Cỏ May thì ở hướng đông nam, trung đoàn 12 được trên 50 ghe
của ngư dân Phước Tỉnh chuyển quân vượt Cửa Lấp hết sức thuận lợi. Sư đoàn quyết
định chuyển hướng, giao cho Trung đoàn 12 đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu.
Tiểu đoàn 6 được lệnh đưa một đại đội đánh vào cụm phòng ngự của địch tại ấp
Phước Thành, chi viện cho hướng Cỏ May, cô lập bọn địch ở tuyến phòng thủ Cỏ
May-Cây Khế với trung tâm thành phố. Bị đánh từ phía sau lưng, toàn bộ địch trên
tuyến phòng ngự Cỏ May – Cây Khế hoang mang, nhốn nháo. Từ hướng cầu Cỏ
May, Tiểu đoàn 3 mở đợt phản kích quyết liệt, địch tan vỡ từng mảng, tan tác tháo
chạy, quăng súng thoát thân.
Xế trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 2, Sư đoàn Sao Vàng tiến
quân qua cầu Rạch Bà. Phân đội 2 của A.32 đặc công thủy Vũng Tàu đã chốt giữ từ
đêm và bảo vệ cây cầu cho đại quân ta tiến vào. Từ cầu Rạch Bà đến ngã tư Giếng
Nước, địch hầu như không còn sức chống trả. Phường Thắng Nhất được giải phóng
lúc 15 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975. Đêm 29/4/1975, các lực lượng vũ trang đã
vào đến trung tâm thành phố. Các cơ sở Đảng trong Nhà đèn Vũng Tàu đã phát động
tinh thần yêu nước và giao trách nhiệm cho anh em công nhân bảo vệ nhà máy, giữ
vững dòng điện trong ngày lịch sử giải phóng Vũng Tàu.
Hòa với tiếng súng của lực lượng vũ trang, Ban khởi nghĩa các phường cùng
cơ sở nội tuyến dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự nội ô Vũng Tàu hướng dẫn,
phát động nhân dân bảo vệ công sở, truy kích địch giành chính quyền. 9 giờ sáng
ngày 30 tháng 4 năm 1975 ta đã chiếm Tòa thị chính và hầu hết các công sở. Trong
rừng cờ và biểu ngữ, nhân dân các phường trong Thành phố Vũng Tàu hân hoan
lắng nghe đồng chí Phạm Văn Hy, Bí thư Thành ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban quân
quản đọc nhật lệnh kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền nộp vũ khí; động viên nhân dân
Vũng Tàu truy quét địch, ổn định cuộc sống, xây dựng chính quyền cách mạng.
Trận đánh quyết liệt nhất ở trung tâm thành phố đã diễn ra tại khách sạn Palace
từ sáng 30 tháng 4 năm 1975. Trưa 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống ngụy Dương
Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng, nhưng sĩ quan và binh lính ở khách sạn Palace vẫn
điên cuồng chống trả. Trung đoàn phó Trung đoàn 12 trực tiếp chỉ huy trận đánh.
Tiểu đoàn 6 dùng hỏa lực bắn áp đảo liên tục 30 phút vào các tầng lầu, chi viện cho
bộ đội tiếp cận, dùng lựu đạn phá cửa tầng dưới đưa đồng bào ra ngoài, sau đó luồn
xuống phía Tây Nam từ các hẻm của khu dân cư đánh vào bên sườn khách sạn. Một
mũi khác được thanh niên địa phương dẫn đường đã đưa hỏa lực lên chiếm lĩnh sườn
Núi Nhỏ, nã đại liên, B40, B41 và ĐKZ vào các cửa sổ tiêu diệt địch. 13 giờ 30 phút
ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thành phố Vũng Tàu hoàn toàn giải phóng.
d. Nổi dậy giải phóng Côn Đảo
Ngày 01/5/1975, sau khi thành phố Vũng Tàu được giải phóng, Tiểu đoàn
445, bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa cùng tiểu đoàn 6, thuộc Trung đoàn 12 của Sư
đoàn Sao Vàng anh hùng được lệnh tập kết về cảng Rạch Dừa, chuẩn bị xuống tàu
giải phóng Côn Đảo.
Nhà tù Côn Đảo lúc này có 7.448 tù nhân, trong đó có 4.234 tù chính trị bị
cấm cố trong 8 trại giam. Ngày 29/4/1974, khi các mặt trận đồng loạt nổ súng tiến
vào giải phóng Sài Gòn thì ở Côn Đảo, các trại tù cấm cố bị canh gác chặt chẽ. Chúa
đảo Lâm Hữu Phương cùng cố vấn Mỹ bí mật rút chạy ngay trong đêm.
Sáng 30/4/1975, Đại úy Phạm Huỳnh Trung, Chỉ huy phó Đặc khu Côn Sơn
nắm quyền chỉ huy ra lệnh khóa chặt cửa các trại giam, tổ chức di tản và chuẩn bị
thủ tiêu tù chính trị bằng lựu đạn vào giờ chót. Tình thế đảo ngược khi Tổng thống
ngụy Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Bọn ác ôn kinh hoàng tháo chạy, dẫm
đạp lên nhau tại cầu Tàu, tranh cướp ghe ra tàu Mỹ di tản.
Ở Trại VII, sau khi kiểm tra nguồn tin bằng radiô và trực tiếp quan sát tình
hình, những người có trách nhiệm quyết định chớp thời cơ tự giải phóng. 03 giờ sáng
ngày 01/5/1975, cả 8 khu của Trại VII được giải phóng, Đảo ủy lâm thời (gồm 7
đồng chí) được thành lập. Theo sự chỉ đạo của Đảo ủy, tù chính trị tổ chức lực lượng
vũ trang, chia thành nhiều mũi, chiếm các vị trí xung yếu của đảo và mở cửa giải
phóng cho các trại. 10 giờ sáng cùng ngày, Đài phát thanh Côn Đảo phát tin tù chính
trị hoàn toàn làm chủ Côn Đảo và công bố danh sách các thành viên trong chính
quyền cách mạng.
Rạng sáng ngày 04/5/1975, chuyến tàu chở lực lượng vũ trang ra giải phóng
Côn Đảo cập bến cũng là lúc tình hình trên đảo đi vào ổn định. Ngày 05/5/1975, con
tàu đầu tiên chở 550 chiến sĩ tù nhân Côn Đảo về đến Vũng Tàu. Ủy ban quân quản
Vũng Tàu tổ chức trọng thể cuộc mít tinh tại cảng Rạch Dừa chào đón những người
con ưu tú của Tổ quốc vừa chiến thắng trở về.
3. Những nhân tố tạo nên thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của Cuộc tổng tiến
công và nổi dậy giải phóng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu năm 1975.
Thắng lợi của tổng tiến công và nổi dậy trước hết về sự chỉ đạo sáng suốt của
Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam, Khu ủy miền Đông và Đảng bộ tỉnh.
Tiến công và nổi dậy, giải phóng Bà Rịa, Vũng Tàu mùa Xuân năm 1975 là một
chiến công xuất sắc của quân và dân Bà Rịa, Vũng Tàu. Đó là thắng lợi của sự phối
hợp giữa các lực lượng quân sự, chính trị, binh vận; của bộ đội tỉnh, bộ đội huyện,
du kích, an ninh và lực lượng quần chúng nổi dậy. Góp phần to lớn vào chiến công
giải phóng quê hương Bà Rịa, Vũng Tàu còn có sự chi viện đắc lực của bộ đội chủ
lực mà trực tiếp là sư đoàn Sao Vàng và Z24 (quân báo miền). Đó là những nhân tố
tạo nên thắng lợi rực rỡ mùa Xuân 1975 ở tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu.
Với khí thế dũng mãnh tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, quân và
dân Bà Rịa, Vũng Tàu đã phối hợp chặt chẽ với Sư đoàn Sao Vàng anh hùng đập tan
01 tiểu khu, 02 yếu khu, 05 chi khu cùng lực lượng tương đương 6 sư đoàn giải
phóng địa bàn tỉnh, góp phần vào thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.